Tuesday, April 19, 2016

Bài giảng về Cuộc sống gia đình xã hội làm rúng động thế giới internet





Gia đình trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội

Trước Vatican II

Đối với Giáo
Hội Công Giáo, gia đình chính là nền móng của xã hội. Vết nứt ở móng đó
sau cùng sẽ làm nảy sinh các trận động đất trong xã hội. Trong thực
tế, không thể có một xã hội lành mạnh mà không có các gia
đình lành mạnh. Tuy nhiên, để các gia đình được lành mạnh, các thành
viên gia đình phải hiểu – và sống – chính ý nghĩa những gì là gia đình.



Chắc
chắn, ngày nay  khó mà có một tín hữu Công giáo chẳng biết rằng gia
đình là một đề tài suy tư thường xuyên của Đức Thánh cha. Chúng ta
sẽ xem xét giáo huấn của Đức Thánh cha dưới đây, nhưng giáo huấn và suy
tư về gia đình, không có gì ngạc nhiên, đã có   trước triều giáo
hoàng của Đức Gioan Phaolô II. Thật vậy, trong khi Công đồng Chung
Vatican II cung cấp giáo huấn trung tâm về gia đình, thì trong giai
đoạn tiền Công đồng hầu hết các nguyên tắc hướng dẫn đã được đề ra.

Ảnh: Internet

Ảnh: Internet
Giáo huấn Xã hội Công giáo hiện đại được khai sinh năm 1891 trong Thông điệp Rerum Novarum (Về Hoàn cảnh của Giới Công nhân). Trong
khi vai trò của Giáo hội là thày dạy về “các vấn đề xã hội”
không mới (Giáo Hội luôn luôn và ở khắp nơi, qua ủy thác của Thiên
Chúa, là thày dạy đức tin và luân lý), chính trong Rerum Novarum mà
đầu tiên Giáo hội đáp trả một cách hệ thống các vấn đề của thời hiện
đại. Thật vậy, một vị giáo hoàng tiếp theo, Đức Piô XI trong Quadregessimo Anno, gọi đó là “hiến chương mà tất cả các hoạt động của Kitô hữu trong các vấn đề xã hội dựa vào”.

Trong Rerum Novarum, Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII trình bày điều được nhìn nhận là “học thuyết xã hội
của Giáo Hội”. Nhiều nguyên tắc đề ra, như chúng ta sẽ thấy, sau đó sẽ
 được triển khai qua huấn quyền giảng dạy của Giáo hội. Ví dụ, thông
điệp khẳng định quyền kết hôn, gia đình có trước xã hội, Nhà nước có
nghĩa vụ hỗ trợ gia đình, sự can thiệp đó của Nhà nước phải được hạn
chế, tầm quan trọng của thẩm quyền của cha mẹ, quyền tư hữu gắn liền với
việc thực hiện các nhiệm vụ của cha mẹ, và phẩm giá của công việc. Đối
với Đức Lêô, gia đình là “xã hội hộ gia đình”. Trong lời của chính Đức
Lêô –

“Các quyền thuộc loại này (nghĩa là, các quyền tư hữu) vốn
có nơi các cá nhân được xem có giá trị lớn hơn nhiều khi được xem
lắp vào và kết nối với các nghĩa vụ của con người trong cuộc sống gia
đình… Không pháp luật nào của con người có thể bãi bỏ được quyền tự
nhiên và nguyên thủy của hôn nhân… Do đó, xem kìa, gia đình, hoặc đúng
hơn, xã hội hộ gia đình, một xã hội rất nhỏ, nhưng là một xã hội thực
sự, và có trước bất kỳ chính thể nào! Vì lý do đó, gia đình phải có các
quyền và các bổn phận nhất định của mình hoàn toàn độc lập với Nhà
nước…. Do đó, giả định, tất nhiên, rằng những giới hạn được thiết lập
cho mục đích trước mắt được tuân thủ, gia đình chắc chắn có các
quyền, ít ra là bằng với các quyền của xã hội, đối với việc chọn lựa
và sử dụng những gì cần thiết để bảo vệ chính mình và quyền tự do chính
đáng của mình… Nhưng nếu các công dân, nếu các gia đình, sau khi trở
thành những người tham gia vào đời sống chung và xã hội, cảm thấy bị
chấn thương trong một khối thịnh vượng chung thay vì được giúp đỡ, bị
suy giảm các quyền lợi thay vì được bảo vệ, thì xã hội sẽ là một cái gì
đó cần bác bỏ hơn là cần tìm kiếm…. Do đó, mong muốn rằng chính quyền
dân sự tùy tiện bước vào trong sự riêng tư của căn nhà, là một lỗi
lớn và nguy hiểm. Nếu một gia đình lâm cảnh cực kỳ khó khăn và vì
vậy hoàn toàn không thể tự xoay sở, thì việc nhận sự hỗ trợ của chính
quyền để được giảm bớt sự khó khăn là chính đáng, vì mỗi gia đình
là một phần của cộng đồng. Tương tự như vậy, nếu bất cứ nơi nào có sự vi
phạm nghiêm trọng các quyền đối với nhau trong bức tường gia đình, cơ
quan công quyền có trách nhiệm khôi phục quyền của mỗi người vì điều
này không chiếm đoạt các quyền của công dân, nhưng bảo vệ và xác
nhận những quyền đó với sự quan tâm đúng đắn và chính đáng. Những người
phụ trách việc công, tuy nhiên, phải dừng lại ở đây: lẽ tự
nhiên không cho phép họ vượt quá giới hạn này. Gia quyền không
thể được bãi bỏ cũng không thể bị Nhà nước nuốt chửng, vì nó có cùng
nguồn gốc chung với nguồn gốc cuộc sống riêng của con người” [18-21].

Công Đồng Chung Vatican II (1963-1965)

Vatican II đề cập đến gia đình trong bốn văn kiện quan trọng – Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo, Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, và Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay.

Trong Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis, 28
tháng 10 năm 1965), các Giáo phụ nhấn mạnh vai trò không thể thay
thế của cha mẹ trong vấn đề giáo dục con cái. “Vì là người truyền sự
sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục
chúng.… Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó
lòng bổ khuyết được”.

Vai trò của cha mẹ là dạy con cái “hiểu
biết và thờ phượng Chúa và yêu người thân cận”. Việc giáo dục đó chuẩn
bị các em cho đời sống trong xã hội. Thật vậy, “gia đình là trường học
đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể”.

Mặc
dù “Nhiệm vụ giáo dục trước hết thuộc về gia đình, nhưng cũng cần đến sự
trợ giúp của toàn thể xã hội”. Các quyền bính dân sự và chính trị “đẩy
mạnh công cuộc giáo dục giới trẻ bằng nhiều phương cách, như bảo vệ
quyền lợi cha mẹ và những người góp phần vào việc giáo dục và phải giúp
đỡ họ trong công tác đó. Theo nguyên tắc bổ trợ, khi cha mẹ và các đoàn
thể khác thiếu sáng kiến, xã hội dân sự phải kiện toàn công việc giáo
dục, nhưng cũng phải để ý đến nguyện vọng của cha mẹ” (3).

Do
đó, trong Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, Giáo hội khẳng
định rằng (a) cha mẹ là các nhà giáo dục đầu tiên của trẻ em, (b) nền
giáo dục đó chuẩn bị con cái của họ đảm nhận vị trí trong xã hội và Giáo
hội, và (c) vai trò của Nhà nước là hỗ trợ cha mẹ trong nhiệm vụ này.

Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo (Dignitatis Humanae, 7 tháng 12 năm 1965) nhắc lại một chủ đề từ Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo. Cha
mẹ “có quyền tự do tổ chức đời sống tôn giáo trong gia đình mình, dưới
sự hướng dẫn của cha mẹ. Cha mẹ cũng có quyền ấn định việc giáo dục cho
con cái theo tôn giáo mình tin tưởng. Vì thế, quyền bính dân sự phải
chấp nhận quyền tự do thực sự của cha mẹ trong việc lựa chọn trường học
và những phương tiện giáo dục khác…. Ngoài ra, quyền lợi của cha mẹ sẽ
bị xâm phạm, nếu con cái họ bị cưỡng bách theo học những môn học không
đáp ứng với niềm xác tín về tôn giáo của họ, hay bắt phải theo một lề
lối giáo dục duy nhất hoàn toàn loại bỏ việc giáo dục tôn giáo” (DH 5).

Khi ta đọc Dignitatis Humanae cùng với Gravissimum Educationis, rõ
ràng là Giáo hội Công giáo dạy rằng trong khi vai trò chính của cha
mẹ là thày dạy con cái có thể được  – và đôi khi phải được – tăng
cường bởi Nhà nước, thì Nhà nước không được làm như vậy xâm  phạm đến
niềm tin tôn giáo căn bản của các cha mẹ. Giáo dục, vậy thì, không phải
là một chức năng của Nhà nước; đúng hơn, đó là chức năng của cha
mẹ, chức năng này có thể đòi hỏi Nhà nước hỗ trợ. Dù hỗ trợ dưới hình
thức nào, thì Nhà nước cũng phải tôn trọng và tạo thuận tiện cho nền
giáo dục tôn giáo chấp nhận được bởi cha mẹ. Nếu như vậy, các trẻ
em sẽ được chuẩn bị đúng đắn cho xã hội, và xã hội, có thể nói, sẽ gặt
hái các lợi ích. Gia đình, như Công đồng mệnh danh, là “trường dạy các
đức tính xã hội”.

Sắc lệnh về Tông ðồ Giáo dân (Apostolicam Actuositatem, 18
tháng 11 năm 1965) thảo luận việc tông đồ của những người đã kết hôn và
của gia đình. Tất nhiên, về bản chất, đó chỉ là một việc tông
đồ. Không có sự phân biệt giữa “người kết hôn” và “gia đình”. Đúng
hơn, gia đình (có hoặc không có con) là hoa trái của hôn nhân. Tuy
nhiên, vì không có gia đình nào mà không có sự kết hôn, “cộng đoàn hôn
nhân làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội loài người” (11). Gia
đình, “cùng với tất cả các tín hữu”, cần hợp tác với “các người  thiện
chí” để bảo đảm pháp luật dân sự tôn trọng hôn nhân và gia đình, và để
bảo đảm nhu cầu cụ thể của gia đình được tôn trọng trong pháp luật của
xã hội liên quan đến, ví dụ như, nhà ở, giáo dục, và an sinh xã hội. 
Ngoài ra, chính gia đình, ngoài vai trò trong xã hội chính trị, còn đem
lại “sự hiếu khách và cổ võ đức công bằng cũng như những việc thiện khác
giúp các anh em đang túng thiếu”.

Bằng tất cả những phương cách
này, gia đình đóng vai trò “tế bào sống còn của xã hội”. “Ðể dễ dàng đạt
tới những mục đích tông đồ này, các gia đình nên qui tụ thành những
nhóm”.

Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay (Guadium et Spes, 7
tháng 12 năm 1965) đã dạy: “Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô
độc: bởi vì từ khởi thủy ‘Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ’ (Stk 1,2-7).
Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người
với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu
thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác, con
người sẽ không sống và phát triển tài năng mình”. Trong phần nói về
“Phẩm giá của Hôn nhân và Gia đình”, Giáo Hội mạnh mẽ tuyên bố rằng “Sự
lành mạnh của con người cũng như xã hội nhân loại và Kitô giáo liên kết
chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình”
(47). “Gia đình là nơi nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp nhau nên khôn ngoan
đầy đủ hơn cũng như giúp nhau hòa hợp những quyền lợi cá nhân với những
đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội. Bởi đó, tất cả những ai có ảnh hưởng
trên các cộng đoàn và tập thể xã hội phải góp công hữu hiệu thăng tiến
hôn nhân và gia đình. Chính quyền phải nhìn nhận, bênh vực và phát huy
tính chất đích thực của hôn nhân và gia đình, phải bảo vệ nền luân lý
chung và giúp cho gia đình được sung túc, vì đó là những bổn phận mà
chính quyền phải coi như một sứ mệnh thiêng liêng phải chu toàn. Lại
phải bảo đảm cho cha mẹ quyền sinh sản và giáo dục con cái trong khung
cảnh gia đình. Phải soạn thảo được những bộ luật biết tiên liệu và đề ra
được nhiều sáng kiến để bảo vệ và nâng đỡ cả những người vì rủi ro mà
không có gia đình” (52).

Do đó, Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân và Gaudium et Spes nhấn
mạnh tính thống nhất căn bản của hôn nhân và gia đình (dây liên kết
ngày nay thường bị từ chối), cho thấy hôn nhân/gia đình là căn bản như
thế nào đối với xã hội, và đặt ra trên tất cả người thiện chí nghĩa
vụ bảo vệ và thăng tiến hôn nhân và gia đình.

Sau Vatican II

Tôi
cho rằng “chìa khóa” để hiểu triều giáo hoàng của Đức Gioan
Phaolô II, nếu người ta có thể nói như thế, là hiểu rằng Đức Giáo
hoàng là người con trung thành của Công đồng. Nói cách khác, Đức Gioan
Phaolô II là – và mong muốn trên hết mọi sự là – người thực hiện trung
thành và không mệt mỏi giáo huấn của Công đồng Vatican II. Ngài chắc
chắn đã thực hiện điều này với giáo huấn của Công đồng về gia đình.

Giáo
huấn của Đức Gioan Phaolô II về gia đình chủ yếu ở trong ba văn
kiện, Nhiệm vụ của Gia đình Kitô hữu trong Thế giới Ngày nay (Familiaris Consortio) (1981), Về Kỷ niệm một Trăm năm ban hành Thông điệp Rerum Novarum (Centesimus Annus) (1991), và Tin mừng về Sự sống (Evangelium Vitae) (1995).

Trong Familiaris Consortio, ngay
từ khởi đầu triều giáo hoàng, Đức Thánh cha đề cập đến một vấn đề rất
thân thương đối với ngài, gia đình. Vấn đề là khẩn cấp bởi vì “gia đình
đang bị nhiều sức ép tìm cách huỷ diệt hay ít ra là muốn làm méo mó
nó” và bởi vì “lợi ích của xã hội và lợi ích [của Giáo hội] đều được
liên kết mật thiết với lợi ích của gia đình”.

Đức Thánh cha tuyên
bố “Hôn nhân và gia đình được Thiên Chúa thiết định ngay từ lúc sáng
thế” (3). Sở dĩ như thế bởi vì đó là “nơi” tình yêu biểu hiện, thể
hiện, sống. “Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người”. “Nơi
duy nhất làm cho sự trao hiến ấy có thể thực hiện được với trọn cả sự
thật của nó chính là hôn nhân… nhờ đó mà người nam và người nữ chấp nhận
sống chung và chia sẻ tình yêu như chính Thiên Chúa đã muốn” (11). “Gia
đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản về đời sống xã hội; như
một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến mình là qui
luật hướng dẫn gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng. Sự hiến mình
đang làm cho tương quan giữa đôi bạn với nhau được sinh động chính là
kiểu mẫu và nguyên tắc”… (37). “Chính kinh nghiệm về sự hiệp thông và
chia sẻ phải là đặc điểm cho đời sống thường nhật của gia đình, và tạo
nên phần thiết yếu và căn bản mà gia đình đóng góp được cho xã hội”
(43).

“Vai trò xã hội của gia đình còn được mời gọi diễn tả dưới
hình thức can thiệp chính trị: chính các gia đình là người đầu tiên phải
làm sao để các luật lệ và cơ chế của Nhà nước không những đừng làm tổn
thương các quyền lợi và bổn phận của gia đình, nhưng còn nâng đỡ và bảo
vệ chúng một cách tích cực. Về điểm này, gia đình cần có một ý thức càng
lúc càng mạnh mẽ rằng, mình là những người đi đầu của điều mệnh danh là
“chính sách gia đình”, và mình phải lãnh lấy trách nhiệm biến đổi xã
hội” (44).

“Các gia đình Kitô hữu cũng tích cực dấn thân ở mọi mức
độ, vào những hiệp hội khác không thuộc Hội thánh. Một số trong các
hiệp hội này nhằm bảo vệ, thông truyền và cứu vãn các giá trị luân lý,
văn hoá đích thực của dân tộc mà họ là thành phần, nhằm phát triển ngôi
vị con người, bảo vệ các bà mẹ và trẻ em về mặt y khoa, pháp luật và xã
hội, thăng tiến chính đáng các phụ nữ, gia tăng tình liên đới tương trợ,
hiểu biết những vấn đề gắn liền với việc điều hoà sinh sản có trách
nhiệm theo những phương pháp tự nhiên phù hợp với phẩm giá con người và
giáo lý của Hội thánh. Một số hiệp hội khác lại nhằm kiến tạo một thế
giới công bình và nhân bản hơn, cổ võ những luật pháp công bình tạo
thuận lợi cho một trật tự xã hội thích hợp có sự kính trọng trọn vẹn
phẩm giá cũng như mọi quyền tự do chính đáng của cá nhân và của gia
đình, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế, hoặc nhằm cộng tác với
học đường và các tổ chức bổ túc cho việc giáo dục trẻ em, và nhiều hiệp
hội khác” (72).

“Việc tông đồ gia đình còn được triển nở dưới hình
thức những công tác bác ái về tinh thần cũng như vật chất đối với các
gia đình khác, cũng như đối với những người đau ốm, già cả, tàn tật, mồ
côi, goá bụa, những người chồng, những người vợ bị bỏ rơi, những người
mẹ độc thân và những người mẹ trong tình huống khó khăn, đang bị cám dỗ
loại bỏ đứa con còn trong bào thai, v.v…” (71).

“Dân Thiên Chúa
cũng phải can thiệp với các công quyền, để các quyền bính này chống lại
những xu hướng đang làm phân hoá xã hội và gây thiệt hại cho phẩm giá,
sự an ninh và tiện ích của nhiều công dân, cũng như để họ ra sức tránh
cho quan niệm đại chúng khỏi đi tới chỗ coi rẻ tầm quan trọng của cơ chế
hôn nhân và gia đình… Xã hội và các công quyền tạo được sự thuận lợi
cho người ta sống đời hôn nhân một cách hợp pháp, như bằng cách can
thiệp vào xã hội và chính trị nhằm bảo đảm tiền lương gia đình, nhằm áp
dụng những phương sách để ai nấy có được nơi cư trú thích hợp với đời
sống gia đình, nhằm tạo ra những cơ hội tương xứng để làm việc và sinh
sống”(81).

“Theo nguyên tắc [bổ trợ] này, Nhà nước không được tước
mất những trách nhiệm mà gia đình có thể tự mình chu toàn…. Quyền bính
công cộng phải hết sức xả thân để cung ứng cho các gia đình mọi sự trợ
giúp – về kinh tế, xã hội, giáo dục, chính trị, văn hoá – mà họ cần có
để hoàn thành các trách nhiệm của họ một cách thật sự nhân bản” (45).

Đức
Thánh cha cũng đề cập đến các chủ đề khác mà chúng ta đã xác định – một
nền thần học đích thực về lao động được phát triển để làm rõ các tương
quan giữa lao động và gia đình (23); cần lưu ý rằng gia đình là “Giáo
hội tại gia” và tương lai của việc loan báo Tin Mừng phụ thuộc vào Giáo
hội (65); và nhấn mạnh tính ưu việt của cha mẹ trong việc giáo dục con
cái.

Tóm lại, Familiaris Consortio dạy
rằng gia đình là cốt lõi toàn xã hội vì gia đình dạy ta ý
nghĩa của tình yêu, đó là sự tự hiến. Tình yêu đó sẽ tràn ra, trước
tiên, đến các thành viên khác  trong gia đình của mình, rồi đến các gia
đình khác, rồi đến toàn xã hội. Gia đình là cốt lõi sống còn của xã
hội và là trường dạy luân lý xã hội. Các gia đình phải tham gia vào sinh
hoạt chính trị của các đoàn thể của mình để bảo đảm thông qua các chính
sách bảo vệ và thăng tiến gia đình. Gia đình phải tham gia vào các tổ
chức hoạt động vì công ích, công lý, liên đới và bác ái, cũng như vì sự
bảo vệ gia đình và hôn nhân.

Mười năm sau Familiaris Consortio, Đức
Thánh cha trở về với đề tài gia đình trong ngữ cảnh ngài trình bày
lại toàn bộ giáo huấn xã hội Công giáo nhân dịp kỷ niệm một trăm
trăm ban hành Thông điệp Rerum Novarum. Trong Thông điệp Centesimus Annus, Đức
Thánh cha ghi nhận vai trò quan trọng của gia đình trong việc đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân và thăng tiến sự sống. Thông qua việc hiến thân
trao tặng nhau trong gia đình, ta học biết “ý nghĩa đích thực của con
người. Ở đây chúng tôi muốn nói đến gia đình được lập trên hôn nhân”
(39). “Ðể vượt qua não trạng cá nhân chủ nghĩa đang lan tràn ngày nay,
cần có sự dấn thân cụ thể trong tình liên đới và bác ái, khởi sự từ
trong gia đình” (49).

Đức Thánh cha cũng suy tư về “nền văn hóa sự chết”, những suy tư mà ngài sẽ mở rộng và khai triển phong phú trong Thông điệp Evangelium Vitae, một vài năm sau
đó. Ở đây, cũng đủ ghi nhận sự kiện cơ bản – “Ðứng trước cái được gọi
là văn hóa sự chết, gia đình là trung tâm nền văn hóa sự sống” (39).

Trong chính Thông điệp Evangelium Vitae,
Đức Thánh cha lưu ý rằng “Phải chiến đấu với những nguyên nhân tạo điều
kiện cho những mưu toan làm hại sự sống, nhất là bảo đảm cho gia đình
và tình mẫu tử sự nâng đỡ cần thiết: chính sách gia đình phải là nền
móng và động cơ tất cả mọi chính sách xã hội. Bởi vậy, phải đưa ra những
sáng kiến xã hội và lập pháp để có thể bảo đảm những điều kiện tự do
chân thật trong việc chọn lựa liên hệ đến tình phụ tử và tình mẫu tử;
hơn nữa, cần xét xem lại quan điểm về các loại chính sách lao động, đời
sống đô thị, nhà cửa và các dịch vụ, để ta có thể hài hòa lịch làm việc
với thời gian dành cho gia đình, để cho ta có thể thực sự chăm sóc con
cái và những người lớn tuổi” (90).



Kết luận

Chúng
ta đã xem xét vai trò của  gia đình trong tư tưởng xã hội Công giáo,
trước Vatican II, tại Vatican II và sau đó. Chúng ta đã thấy rằng gia
đình nằm tại chính tâm điểm của tư tưởng xã hội Công giáo. Ngay cả con
người chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình bên trong các
tương quan, và gia đình, được thiết định trên hôn nhân, là tương quan
đầu tiên và hàng đầu trong tất cả các tương quan của con người.

Gia
đình khai sinh ra xã hội qua việc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em
một ngày kia sẽ trở thành công dân. Gia đình là phần cốt lõi sống còn
của xã hội, và xã hội sẽ tìm thấy hình ảnh của mình được phản
ánh trong các loại hình gia đình làm thành xã hội.

Vì những lý do
này và nhiều lý do khác, Nhà nước phải tôn trọng gia đình. Nhà nước
không bao giờ được phép thay thế gia đình, nhưng phải hỗ trợ gia đình
khi – và chỉ khi – cần có sự hỗ trợ đó.

Tự do tôn giáo, như Đức Gioan Phaolô II ghi nhận trong thông điệp Redemptor Missio, “là
tiền đề và sự bảo đảm cho tất cả các quyền tự do khác bảo đảm công
ích” (39) Đức tin qua cha mẹ đến với các con. Do đó, tự do đầu
tiên trong tất cả các quyền tự do được bảo đảm bởi các chính sách ủng
hộ gia đình.

Tương tự như vậy, “quyền căn bản và nguồn tất cả các quyền khác… là quyền sống” (Evangelium Vitae, 72). Một lần
nữa, chính gia đình dạy và làm gương cho các giá trị bảo tồn sự
sống. Như vậy, nếu chúng ta muốn xây dựng một nền văn hóa sự
sống, thì chính sách gia đình phải là trọng tâm của tất cả chính
sách xã hội.

“Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình”
(FC 86). Giáo hội dạy rằng nhiệm vụ của các gia đình là tham gia cùng
với những người thiện chí xây dựng một xã hội và Nhà nước tôn
trọng, trân quý, thăng tiến và bảo vệ gia đình.

William L. Saunders, Jr.

Đinh Quang Bàn dịch

No comments:

Post a Comment